Lục Hào Cổ Bốc đem phương diện lý luận phân loại là Tổng luận thiên, Dịch lý thiên, Tiến giai thiên, Chi tiết thiên, Phân loại thiên năm sách tổng cộng 100 chương, nội dung phân loại từ nông tới sâu đối với gieo xu cổ bốc dự đoán lý luận tri thức tiến hành toàn diện hệ thống luận thuật, để người học có thể khắc sâu lý giải và hấp thu hữu hiệu các tri thức lý luận của lục hào cổ bốc.
Click vào đây để đọc thử sách – Quyển tập 2 phát triển từ tập 1 – có rất nhiều điều mới lạ
Lục Hào Cổ Bốc Tập 2 – Chu Thần Bân – Trích giảng
Lực ảnh hưởng của Tổ hợp Nhật Nguyệt đối với xu thế cát hung
Chúng ta đã biết Nhật Nguyệt có thể đồng thời ảnh hưởng vượng suy đến tất cả các hào trong quẻ, nhưng Tổ hợp Nhật Nguyệt cũng không phải là nhân tố chủ đạo xác định cát hung một quẻ. Chỉ ở một số quẻ tĩnh không hề có hào động hoặc tại quẻ tượng đặc thù mới lộ ra uy lực hạch tâm chủ đạo cát hung. Nhưng điểm này không làm ảnh hưởng đến tầm quan trọng về lý luận của Tổ hợp Nhật Nguyệt, tính chất của hào động thời khắc đều bị Tổ hợp Nhật Nguyệt ảnh hưởng mà biến ảo.
Tổ hợp Nhật Nguyệt có thể khiến hào phát động hóa tuyệt hóa phá mà động không có ý nghĩa, động mà như không động, cũng có thể khiến hào động bị ngăn trở hoặc lâm không, mộ, tạm thời không thể phát huy tác dụng. Cho nên nếu không nắm giữ lý luận về Nhật Nguyệt sẽ không thể thấy rõ tính chất biến hóa chân chính của hào động, đoán quẻ sẽ khó chính xác.
Đầu tiên chúng ta nói về tác dụng độc lập của Nhật, Nguyệt đối với hào
Ảnh hưởng của Nguyệt kiến đến vượng suy của hào
Trên phương diện phán đoán cát hung, Nguyệt kiến ảnh hưởng đối với hào vượng suy chủ yếu có ba loại vượng tướng, bình tướng, suy tướng, đây là căn cứ vào cổ thư Nguyệt kiến bốn mùa “Vượng tướng hưu tù” mà tổng kết ra như sau:
Hào vượng tướng ở Nguyệt kiến có bốn loại:
- Hào lâm Nguyệt lệnh vượng tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Dần;
- Hào được Nguyệt lệnh hợp vượng tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Hợi;
- Hào được Nguyệt lệnh sinh vượng tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Tý;
- Hào được Nguyệt lệnh tỷ hòa (tức hào và Nguyệt lệnh cùng một thuộc tính) là vượng tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Mão.
Bốn tình huống này là hào vượng tại Nguyệt lệnh, mà mức độ vượng tướng lại phân hai tầng, trong đó hào lâm Nguyệt kiến, hào được Nguyệt hợp là cao tầng vượng tướng, còn lại là bình thường vượng tướng. Lực lượng của cao tầng vượng tướng khác biệt lớn với lực lượng của bình thường suy bại. Như hào Dần mộc gặp ngày Dậu tháng Hợi, Dần mộc được tháng Hợi hợp vượng, lại bị Nhật thần Dậu kim khắc suy, nhưng vì được Nguyệt hợp thuộc về cao tầng vượng tướng, lực lượng lớn hơn lực lượng bình thường suy bại tương khắc, cho nên Dần mộc ở Tổ hợp Nhật Nguyệt tổng thể vẫn là vượng tướng.
Hào suy bại (suy tướng) ở Nguyệt kiến cũng có bốn loại:
- Hào bị Nguyệt lệnh tương xung là suy tướng, gọi là Nguyệt phá. Như hào Dần mộc gặp tháng Thân;
- Hào bị Nguyệt lệnh khắc thương là suy tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Dậu;
- Hào khắc Nguyệt lệnh gọi là hào hưu tù tại Nguyệt, hào là suy tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Sửu;
- Hào sinh Nguyệt lệnh cũng gọi là hào hưu tù tại Nguyệt, hào là suy tướng. Như hào Dần mộc gặp tháng Ngọ;
Bốn tình huống này là hào suy tướng tại Nguyệt lệnh, mà mức độ suy tướng cũng chia hai tầng, trong đó hào bị Nguyệt phá là cao tầng suy tướng, còn lại là bình thường suy tướng. Lực lượng cao tầng suy bại lớn hơn so với bình thường vượng tướng. Như hào Dần mộc gặp ngày Tý tháng Thân, Dần mộc được Nhật lệnh Tý thủy sinh vượng, bị Nguyệt lệnh Thân kim xung phá, nhưng vì hào bị Nguyệt phá thuộc về cao tầng suy bại, lực lượng lớn hơn tương sinh bình thường vượng tướng, cho nên Dần mộc ở Tổ hợp Nhật Nguyệt này tổng thể vẫn là suy bại.
Hào tại Nguyệt kiến là bình tướng có một loại:
Hào được Nguyệt khí là bình tướng, không hiện vượng suy. Cổ thư khái quát: “Hào Thủy khí tại tháng Sửu, hào Mộc khí tại tháng Thìn, hào Hỏa khí tại tháng Mùi, hào Kim khí tại tháng Tuất, được khí là còn có dư lực, không thuộc hưu tù”.
Cái gọi là khí, chính là còn có một tia khí tức, một năm có Xuân Hạ Thu Đông, mỗi quý ba tháng, mỗi cuối quý đều là tháng Thổ, thế gian vạn vật dù thuộc về tính chất gì, đều tồn tại ở thổ, cho nên khí cũng tồn tại ở đây. Trên thực chất tháng Thổ là thời kì quá độ của hai Tiết, như mộc vượng tại hai tháng mùa xuân Dần Mão, mà tới tháng Thìn đã là cuối mùa xuân, quá độ để sang đầu mùa hạ, bởi vậy mộc tại tháng Thìn chỉ có khí tức mùa xuân lưu lại, đi tới tháng Tị đầu mùa hạ thì mộc khí tán đi, hỏa khí tăng lên. Khí chỉ là còn lại một chút cho nên nó bị hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng rất lớn, nói cách khác, hào được Nguyệt khí, trên lý luận mặc dù là không hiện vượng suy, nhưng trên thực tế là bình tướng.
Như hào Dần mộc tại tháng Thìn, đầu tiên chúng ta xác định Dần mộc và tháng Thìn quan hệ nguyên thủy là hào khắc Nguyệt lệnh, tiên thiên điều kiện tạo thành Dần mộc tại tháng Thìn có xu hướng hưu tù, hào Dần mộc này nếu được động biến lực lượng tương sinh (hào động, hào biến), hoặc vì Nhật thần mà vượng, Dần mộc tại tháng Thìn có thể có khí là bình tướng.
Nếu Dần mộc tại Nhật hoặc động biến lực lượng làm cho suy bại thì khí sẽ không tồn tại, Dần mộc tại tháng Thìn chỉ có thể xem là hưu tù. Hoặc hào Thân kim tại tháng Tuất, đầu tiên chúng ta xác định Thân kim và tháng Tuất quan hệ nguyên thủy là được sinh bởi Nguyệt lệnh, tiên thiên điều kiện tạo thành Thân kim tại tháng Tuất có xu hướng vượng tướng, nếu Thân kim được động biến lực lượng tương sinh, hoặc được Nhật kiến hỗ trợ thành vượng, Thân kim tại tháng Tuất là có khí, được tháng Tuất sinh là vượng tướng, nếu Thân kim bị Nhật hoặc động biến lực lượng làm cho suy bại thì khí của tháng cũng không tồn tại, Thân kim tại tháng Tuất không thể được sinh chỉ có thể là bình tướng.
Nguyệt kiến vượng suy có mấy điểm mơ hồ: Trên phương diện vượng suy của hào tại Nguyệt kiến phải chú ý một số điểm mơ hồ sau
Cổ thư nói rõ bốn mùa “Vượng tướng hưu tù”. . . tháng Ba Thìn, Thìn thổ vượng; Sửu Mùi thổ vượng thứ hai. Thổ sinh Kim, kim là tướng, mộc tuy không vượng, vẫn còn khí, còn lại thủy, hỏa, đều là hưu tù. . .”.
Không ít người lại mơ hồ đem cái này ứng dụng vào Nhật thần và hào động, như hào Dần mộc hưu tù tại tháng Ngọ, nhưng có người lại nói hào Dần mộc gặp ngày Ngọ cũng nói là hào hưu tù tại Nhật, đó là sai lầm. Hào Dần mộc gặp ngày Ngọ là không vượng suy bình tướng, không phải hưu tù suy tướng. Vượng tướng hưu tù chỉ ứng dụng tại Nguyệt kiến mà thôi.
Ví dụ: Ngày Mậu Thìn tháng Dần (tuần không: Tuất Hợi) xem em ra ngoài có bình an không, gieo được quẻ Phong Hỏa Gia Nhân
Lấy hào Huynh đệ làm Dụng thần, Huynh đệ Mão mộc được Nguyệt Dần tỷ hòa nên vượng, khắc Nhật thần Thìn thổ là bình tướng, Dụng thần tại Nguyệt vượng tướng tại Nhật bình tướng, tổng thể vẫn là vượng tướng, cho nên đoán em bình an không việc gì, quả nhiên em trai tại ngày Dậu có thể bình an trở về. Nếu coi Dụng thần Mão mộc tại ngày Thìn y theo nguyệt lệnh là hưu tù, thì biến thành Dụng thần vượng tại Nguyệt lệnh suy tại Nhật, tổng thể biến thành bình tướng, hỏi sự tình nếu Dụng thần không vượng tướng, thì khó mà nói cát, dẫn đến kết luận sai lầm.
(2) không ít người mới học hỏi, hào thổ trường sinh tại Thân, vậy hào Tuất thổ tại tháng Thân tính hưu tù hay suy tướng? Hay do trường sinh tại Nguyệt nên là vượng tướng? Khá là rối. Thực ra, khi phán đoán cát hung, sinh vượng mộ tuyệt hình không tồn tại ở Nguyệt lệnh mà chỉ tồn tại ở Nhật thần và hào động, cho nên hào Tuất thổ tại tháng Thân chỉ có thể nói là hưu tù suy tướng, mà không luận là trường sinh. Cũng như vậy, có thể xem một hào mộ tuyệt ở Nhật, hoặc động mộ hóa tuyệt, nhưng không có
Nguyệt mộ Nguyệt tuyệt. Tuy nhiên khi phân tích ứng kỳ lại có thể dùng các lý luận đó….
Trích Lục Hào Cổ Bốc tập 2 – Chu Thần Bân
Xuka –
Bộ cổ bốc rất hay